Chủ Nhật, 31 tháng 7, 2011
Ý kiến của GS Ngô Bảo Châu về trường chuyên, lớp chọn là ủng hộ
"Không phải ai học chuyên Toán đều ra làm toán hay ai học Vật lý đều trở thành nhà nghiên cứu Vật lý, nhưng thực tế cho thấy nói chung học sinh trường chuyên đều thể hiện được năng lực tư duy vượt trội và là những người có nhiều thành công trong cuộc sống sau này. Tập hợp một nhóm học sinh ưu tú vào một môi trường giáo dục đặc biệt, nơi đó các em không chỉ có thầy giỏi mà còn có bạn giỏi như mình để cùng ganh đua, đó là cách tốt nhất để phát triển tư duy học trò"
"Theo tôi về mặt cơ bản, ta tổ chức được hệ thống các trường chuyên, trong đó có các lớp chuyên Toán là một thành công trong giáo dục phổ thông, dù cách tổ chức này có khác với một số nước. Tất nhiên mỗi mô hình có nhược điểm của nó. Nhưng cái gì mình cơ bản làm tốt rồi thì cần phát huy".
"Phải chăng xã hội cần tìm cách điều chỉnh để việc học thêm trở thành hình thức sinh hoạt CLB. CLB là nơi khơi dậy niềm say mê, khám phá, tìm hiểu cuộc sống, nghiên cứu khoa học chứ không hướng vào việc cải thiện kết quả thi cử".
GS. Ngô Bảo Châu
Thủ khoa kép bỏ Ngoại thương sang Nông nghiệp - Một bạn trẻ đã biết mình thích làm nghề gì?
Bích Phương có lẽ là thủ khoa ấn tượng nhất của năm 2011 khi bỏ ĐH Ngoại thương để thi vào ĐH Nông nghiệp Hà Nội. Cả hai đợt thi, cô chỉ thi vào môt trường, và đều "ẵm" điểm cao nhất của cả hai khối A và B.
Năm 2010 đỗ ĐH Ngoại thương Hà Nội và ĐH Y Hà Nội, quyết định theo Ngoại thương theo lời khuyên của cha mẹ nhưng khi phát hiện niềm đam mê của mình dành cho ngành sinh học , Bích Phương quyết định thi lại vào ĐH Nông nghiệp Hà Nội.
Ấn tượng của tôi về cô bạn Hà thành, Chử Bích Phương là giọng nói nhẹ nhàng, ấm áp. Phương rất thẳng thắn, cởi mở. Bích Phương có cách nhìn và suy nghĩ sâu sắc nhưng cũng không thiếu đi nét hồn nhiên, tươi trẻ của thế hệ 9X.
|
“Em không hối tiếc vì quyết định thi vào ĐH Nông nghiệp HN của mình” – Chử Bích Phương, thủ khoa kép khối A, B ĐH Nông nghiệp Hà Nội. Ảnh: Văn Chung |
Bỏ Ngoại thương sang Nông nghiệp
Phóng viên: Tại sao đã đỗ ĐH Y Hà Nội, đỗ cả ĐH Ngoại thương HN, đang học ở ngôi trường là niềm mơ ước của biết bao thí sinh và gia đình Bích Phương lại đột ngột rẽ hướng?
Chử Bích Phương: Thực ra. chọn học ở Ngoại thương, ngành Kinh tế đối ngoại không phải điều em mong muốn. Ai cũng nói vì đất nước đang phát triển, theo học kinh tế sẽ có cơ hội kiếm việc làm, có thu nhập cao lại nhẹ nhàng hơn, thích hợp với con gái nên em muốn vào học thử xem như thế nào.
Học 1 học kỳ ở đây em mới phát hiện ra rằng trước nay mình chưa bao giờ quan tâm đến kinh tế. Được tập trung vào nghiên cứu mới là điều em quan tâm và có hứng thú.
Cùng thời điểm này, em được gặp các anh chị ngành Công nghệ sinh học ở ĐH Nông nghiệp HN, được các anh chị giới thiệu và qua tìm hiểu thì ngành học này thì ĐH Nông nghiệp có trang thiết bị và cơ sở được đầu tư nên em đăng ký dự thi.
ĐH Ngoại thương HN là môi trường tuyệt vời, đặc biệt với những bạn năng động, sáng tạo nhưng không hợp với em. Em rất bình thường thôi (cười).
Không vì cái “mác” đẹp và không thích bon chen
Vì sao trường em chọn không phải là ngành công nghệ sinh học của ĐH Khoa học tự nhiên ĐHQGHN hay trường nào khác?
(Cười) Thứ nhất, hơi trẻ con một chút là em đã học 3 năm trong môi trường ĐH Khoa học tự nhiên rồi (Trường THPT Chuyên Khoa học tự nhiên). Nhưng quan trọng hơn như em đã nói là môi trường ở ĐH Nông nghiệp HN có lẽ phù hợp với em hơn.
Nhiều người băn khoăn rằng vì sao em phải chọn thi cả khối A,B của cùng trường này?
Em nghĩ các trường khác với số điểm này mình hoàn toàn có thể đỗ nhưng khoảng thời gian học “thử” ở ĐH Ngoại thương HN đã cho em biết sở thích của mình là gì. Khi xác định được mục tiêu thì cứ thế mà làm thôi.
Cũng nhiều bạn nghĩ 24 điểm là hơn 21 điểm rồi chuyện phải học, thi vào ngành “hot”, sau sẽ dễ xin việc, kiếm tiền dù có thể sau này các bạn kia có thể kiếm nhiều tiền hơn em, nhàn hơn em. Em không chọn trường theo cái “mác” mà nghĩ mình thực sự cần gì và chọn cái mình thích. Đó là điều em học được ở ngôi trường cấp III của mình.
Và còn gì nữa không?
Em cũng muốn mọi người thay đổi cách nghĩ “áp đặt” này rằng học ở Nông nghiệp là kém hơn Kinh tế. Em chọn vào đây nữa cũng vì không muốn bon chen. Từ bé đến giờ em chưa được biết nhiều về nông nghiệp và những người nông dân. Nhưng em yêu thích được gần thiên nhiên, xa khói bụi thành phố.
Hơn nữa, em nghĩ về nông nghiệp là một thế mạnh để phát triển đất nước. Ngành công nghệ sinh học còn nhiều tiềm năng để khai thác, nghiên cứu. Người nông dân mình quanh năm cần mẫn cấy hái mà vẫn nghèo. Em muốn giúp chút sức để thay đổi điều đó.
Không muốn dựa dẫm
Bố mẹ nghĩ sao về quyết định của em?
(Trầm ngâm) Thú thực là cho tới giờ thì bố mẹ vẫn chưa hoàn toàn chấp nhận anh ạ. Em hiểu được điều đó.
Từ bố mẹ đến người thân,.. từ ngỡ ngàng đến phản đối, phân tích hết thiệt hơn nhưng em vẫn cố gắng bình tĩnh.
Bạn bè em nhiều bạn cũng đã lựa chọn như em nên các bạn ủng hộ và động viên em nhiều. Em nghĩ mình không xấu hổ vì đó là sự lựa chọn đúng đắn của em.
Có lẽ nếu là con trai, bố mẹ sẽ không phản đối em nhiều như thế (mặt buồn buồn). Nếu theo học ngành kinh tế, sau này ra trường bố mẹ hoàn toàn có thể xin cho em vào một vị trí tốt. Nhưng từ trước tới nay em chưa hề có suy nghĩ muốn dựa dẫm mà phải đi bằng đôi chân của mình.
Cảm ơn Phương và chúc em sớm thực hiện được ước mơ!
http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/tuyen-sinh/32836/thu-khoa-kep-bo-ngoai-thuong-sang-nong-nghiep.html
Vì sao tôi bỏ nghề dạy sử?
Đọc bài viết của bạn Lê Thu Hà, tôi có một số quan điểm vừa đồng tình vừa không đồng tình với cách nghĩ của bạn nên muốn viết ra những chia sẻ của bản thân để chúng ta cùng bàn luận sâu hơn về vấn đề này.
Vốn là một giáo viên, đã từng tốt nghiệp khoa Lịch sử của Trường ĐH Sư phạm, nhưng sau 2 năm đi dạy, tôi đã quyết định bỏ nghề và chuyển sang hướng khác.
Đã từng là một học sinh thi đỗ đại học với điểm môn sử là 9/10, tôi hoàn toàn có thể tự hào vì có niềm đam mê môn học này.
4 năm học đại học cũng cho tôi nhiều cảm nhận. Trong quá trình học, tôi chỉ thích học sử thế giới mà không hề thích học sử Việt Nam, đa phần lớp tôi đều thế.
Ngẫm sâu xa, tôi nhận ra vấn đề là những giáo viên dạy sử Việt Nam của chúng tôi rất khó để có một bài dạy hay như giáo viên dạy sử thế giới.
Chúng tôi đã được học sử thế giới thông qua những hình ảnh rất hay về các sự kiện, được giáo viên của tôi trình chiếu bằng slide và là người phiên dịch viên luôn nên đến giờ tôi vẫn không hề quên những giờ giảng như thế.
Đa phần giáo viên dạy sử thế giới của chúng tôi đều đã đi học nước ngoài về và kinh tế cũng khá giả, họ có nhiều cơ hội để trau dồi chuyên môn.
Nhưng với sử Việt Nam, chúng tôi chỉ biết bò ra bàn ngủ cho đến hết giờ rồi về vì có một số giáo viên dạy quá chán, không thể thú vị để mở mắt ra mà nghe nổi.
Những giáo viên đó nhìn cũng tất tưởi, cũng lo toan, cuộc sống có cái gì đó làm họ không thoát ra được.
Do đó, khi ra trường đi dạy, mảng sử Việt Nam không phải là điểm mạnh của tôi. Không phải là hứng thú khi còn học đại học, nên tôi gần như chẳng có gì để nói với học trò ngoài những kiến thức khô khan trong sách.
|
Thí sinh trong buổi thi ĐH đợt 2 kỳ thi tuyển sinh năm 2011. Ở khối C, đề thi môn Lịch sử năm nay được đánh giá là khó và hay, có tính phân loại cao và đòi hỏi học sinh có tư duy tổng hợp, chủ động với thông tin mình học được mới có thể được điểm tốt. Ảnh: Lê Anh Dũng |
Đứng trên quan điểm là người đi dạy, tôi – một cô giáo mới ra trường cũng đầy tâm huyết, cũng mất hàng ngày dài chỉ để lên mạng tải xuống những thước phim về chiến tranh, những tấm bản đồ, những hình ảnh cho thật sinh động để chuẩn bị cho bài giảng ngày mai.
Nhưng tôi – một đứa sinh viên vừa mới tốt nghiệp ra trường sống trên mảnh đất Hà thành với cuộc sống đắt đỏ, với bao chi phí phải bỏ ra cho một tháng, nào tiền thuê nhà, tiền xăng xe, điện thoại, tiền ăn, điện nước, tất cả không thể gánh nổi trên đôi vai gầy chỉ với mức trả lương của một giáo viên hợp đồng trường là 25 ngàn đồng/ tiết (năm 2008).
Một tuần, tôi được nhà trường phân cho dạy chỉ có 8 tiết vì có ít lớp, làm một bài toán nhanh thì một tháng, tôi nhận được 800 ngàn đồng. Trong khi đó, tiền thuê nhà là 900 ngàn đồng/ tháng.
Như vậy, tôi không đủ trả tiền thuê nhà huống chi còn bao nhiêu khoản khác nữa, tôi đành xin đi làm ở một công ty ngoài để trang trải cuộc sống.
Nhưng niềm đam mê trở thành cô giáo của tôi vẫn cháy bỏng. Tôi có những tiết giảng rất hay, học sinh rất hứng thú, và chúng tỏ ra rất yêu quý cô giáo dạy Sử.
Tôi cũng đã áp dụng phương pháp dạy học mới, lấy người học làm trung tâm, chia nhóm để học sinh thảo luận, các em rất hứng thú.
Tôi không thấy học sinh coi mình là cô giáo dạy môn phụ, bằng chứng là tôi đã nhận được những tấm thiệp rất đẹp do học sinh tự làm dành tặng ngày 20 – 11 với những câu từ đầy xúc động mà tôi cảm nhận đó là tấm lòng của chúng, hay những bức tranh mà chúng tự vẽ để tặng tôi.
Tôi còn được học sinh chia sẻ cả những chuyện riêng tư mà chúng không hề nói với bố mẹ hay giáo viên chủ nhiệm.
Tôi đã nhận được những lời đề nghị của những học sinh lớp khác mà tôi không dạy được dạy chúng một tiết thôi vì nghe các bạn lớp tôi kể lại là cô dạy rất hay.
Điều đó làm tôi càng có động lực để giữ nghề.
Nhưng do yêu cầu công việc của bên công ty, tôi không thể đi dạy đều nên chỉ xin dạy 3 tiết một tuần để không quên mình là một giáo viên dạy sử.
Tuy nhiên, tôi không còn thời gian và sức lực để soạn những bài giảng hay sau mỗi ngày đi làm đến tối nhọ mặt người mới về với cơ thể mệt nhoài. Điều đó buộc tôi phải lựa chọn, bỏ nghề để không hổ thẹn với đám học trò bởi những bài giảng dở ẹc hay là tiếp tục với sự chán ngán của chúng sau mỗi bài giảng chỉ toàn lý thuyết suông. Tôi quyết định bỏ nghề.
Tôi nhận ra rằng, không phải giáo viên không có tâm huyết, không phải giáo viên không biết dạy hay, họ hoàn toàn có thể làm được điều đó nhưng chỉ có số rất ít mới sống bằng đam mê mà không phải lo chuyện tiền bạc.
Họ không thể dành 2 ngày cho việc soạn một bài giảng hay chỉ để nhận về 25 ngàn đồng/ tiết dạy.
Họ cũng không thể sống 1 tháng chỉ với 800 ngàn đồng cho bao nhiêu chi phí của cuộc sống thị thành đắt đỏ. Mặc dù yêu học trò, mặc dù đầy nhiệt huyết, cuộc sống vẫn buộc họ phải chọn lựa.
Theo tôi, việc giảng sử không hay có phần lỗi của người dạy nhưng chúng ta cần tìm hiểu cặn kẽ cái lỗi đó do đâu mà có.
Học sinh giống như một tờ giấy trắng, không thể nói là các em không thích học nên giáo viên không hứng thú dạy. Vì sao các em không thích học?
Bằng chứng là tôi đã dạy rất nhiều lớp học sinh và cũng đã từng là học sinh, tôi thấy lỗi không phải ở các em, giáo viên đã không có những bài giảng tốt để gây hứng thú cho học sinh. Nhưng vì đâu giáo viên không có được bài giảng tốt, câu trả lời tôi đã nói ở trên thông qua hai quan điểm người dạy và người học.
Thiết nghĩ, cái vòng luẩn quẩn này âu cũng là bài toán kinh tế chung của cả xã hội.
Lương nhà nước trả chỉ có vậy, người giáo viên muốn sống tốt cũng chẳng còn cách nào khác.
Mục tiêu tuy cao cả nhưng cơm áo gạo tiền buộc họ phải lựa chọn mà thôi. Con người đi làm cũng vì nhiều mục đích, nhưng đa phần là vì tiền và vì đam mê. Vì đam mê thì có số ít mà vì tiền là số nhiều, khi cái mục đích vì tiền không còn trở thành động lực nữa thì việc làm của họ cũng chỉ là cho xong việc mà thôi.
• Bạn đọc Nữ hoàng Phong Lan
http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/dien-dan/33084/vi-sao-toi-bo-nghe-day-su-.html
Minh 'đầu búa' kể chuyện học Harvard
- 2010 là năm đầy ý nghĩa đối với Trịnh Đức Minh, cựu học sinh Trường THPT Chuyên Hà Nội - Amsterdam khi chàng trai sinh năm 1991 này nhận học bổng của ĐH Harvard với giá trị khoảng 4,8 tỉ đồng (236.000 USD/4 năm). Trong chuyến về thực tập tại ĐH Kinh tế TP.HCM năm nay, Minh chia sẻ những câu chuyện thú vị sau một năm học tại Harvard.
|
Trịnh Đức Minh. Ảnh: Hương Giang |
HS Việt Nam bị thiệt thòi kiến thức về kinh tế học
Minh tỏ ra chững chạc và nói năng lưu loát như một chàng trai trưởng thành thực thụ hơn là dáng vẻ của một sinh viên năm thứ nhất.
Chàng trai cận 9 đi-ốp do đọc sách quá nhiều, từ sách văn học, kinh tế học đến triết học này luôn trả lời mọi câu hỏi một cách lễ phép và hết mình.
Tự đặt cho mình biệt danh "minhdaubua" (Minh đầu búa) trên trang web của các du học sinh ở Mỹ, nhiều bạn học sinh đùa rằng, có lẽ bởi lèn chặt kiến thức Đông Tây, kim cổ nên đầu cứng quá.
Đã được học về kinh tế học ngay từ bậc THPT ở Singapore, Minh tỏ ra đam mê tìm hiểu về kinh tế và muốn nghiên cứu sâu về lĩnh vực này dù mới là sinh viên năm thứ nhất. Minh giải thích: ở Singapore hay nhiều nước khác, học sinh đã sớm được tìm hiểu về các lý thuyết kinh tế.
"Học sinh VN vẫn coi vấn đề kinh tế là mới mẻ. Sự khác biệt cơ bản là ở vấn đề giáo dục. VN vẫn chưa có sự giáo dục về môn kinh tế ở mức THPT, và ở đại học, việc đào tạo về kinh tế vẫn chưa thực sự tốt". |
Thế nên, không có gì ngạc nhiên khi ở bậc THPT, Minh đã làm đề tài nghiên cứu khoa học: "Nghiên cứu giá xăng xe máy tại Hà Nội". Tại sao kế hoạch chuyển đổi của Chính phủ từ kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường và điều hành giá xăng theo cơ chế thị trường lại không đạt được kết quả như mong muốn. Đó là chưa thấy sự cạnh tranh rõ nét của các đơn vị kinh doanh. Minh tìm hiểu giá cả từng đơn vị, tìm hiểu thị trường, thói quen tiêu dùng của người dân để biết được nguyên nhân.
Kết quả học tập, những nghiên cứu khoa học được bắt đầu từ sớm là hành trang rất quan trọng đưa Minh tới học bổng của 6 trường ĐH danh tiếng của nước Mỹ.
Hè năm nay, có 61 suất thực tập ở nhiều đơn vị khác nhau: ở CNN, Google, làm việc cho các thượng nghị sĩ...
Tình cờ, Minh thấy một chương trình hợp tác của Trường quản lý Nhà nước Kenedy (Harvard Kenedy Schoool) và ĐH Kinh tế TP.HCM (Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright) nên em đăng ký về VN thực tập luôn. Sau hai tháng thực tập, Minh sẽ viết báo cáo hè cho trường.
Ba điều ĐH Harvard hơn hẳn các trường ĐH khác của Mỹ
Trước đây, chỉ nghe nói về trường ĐH hàng đầu nước Mỹ này, bây giờ, Minh đã tận mắt chứng kiến và thấy mình rất thích hợp khi học tại môi trường này.
Minh thích kiến thức về khoa học chính trị, lịch sử nói chung, quan hệ quốc tế (vừa có lịch sử, kinh tế, chính trị, xã hội học) và Harvard tạo điều kiện cho Minh cũng như nhiều sinh viên khác, được thỏa sức học hỏi và theo đuổi đam mê cùa mình. Minh đang dự kiến học chuyên sâu vào mảng quan hệ quốc tế của ngành khoa học quản lý nhà nước.
Sự khác biệt của Harvard với các trường khác trước hết là có nền giáo dục liberal art education (giáo dục tổng quát). Nó không tập trung vào việc có được một việc làm sau đấy. Nó không có những ngành như kinh doanh, kỹ sư...dạy ở bậc đại học, mà dạy về khoa học và kiến thức: kinh tế, tâm lý học. SV học không phải để có nghề mà để có kiến thức. Triết lý giáo dục của Harvard luôn khuyến khích người học tìm kiếm và tìm hiểu kiến thức. Tài nguyên nghiên cứu, hệ thống thư viện lớn nhất các trường ĐH Mỹ, chỉ đứng sau thư viện quốc hội Mỹ.
Thứ ba là vấn đề con người. Harvard là trường ĐH nghiên cứu lâu đời, vì những lý do trên thu hút được nhiều học giả nổi tiếng. Đặc biệt trong trường có Trường quản lý Nhà nước Harvard Kennedy School, tập trung những học giả và lãnh đạo hàng đầu. Việc tiếp xúc trực tiếp với những người này cho SV rất nhiều điều bổ ích.
"Ví dụ em có thể được ngồi lớp hay nói chuyện với những cha đẻ của những lý thuyết, chẳng hạn như Joseph Nye, tác giả lý thuyết "sức mạnh mềm" hoặc Stephen Walt, thầy giáo trực tiếp của em, là những người đã từng làm việc với VietNamNet. Em cũng có lần gặp bác Nguyễn Anh Tuấn, cựu Tổng biên tập VietNamNet khi bác làm nghiên cứu ở trường Harvard Kennedy School", Minh chia sẻ.
"Khi gặp những người như vậy sẽ có nhiều kiến thức bổ ích, thực tế, sâu rộng, đây là những điều mà em không nghĩ là bất kỳ một trường ĐH nào khác của Mỹ cũng có được."
Vẫn có thời gian đi làm thêm
Cách đào tạo ở Harvard nói riêng và các ĐH Mỹ nói chung là sinh viên được tự chọn môn học. Mỗi kỳ, sinh viên có thể học 3 đến 5 lớp. Nhà trường có đưa một danh sách, nếu muốn tốt nghiệp với một cái bằng loại này thì phải học những môn do trường quy định.
Chẳng hạn, năm đầu tiên Minh đăng ký học tiếng Pháp vì đã từng học ngoại ngữ này ở phổ thông, học lớp đại cương về tâm lý học, lý thuyết kinh tế vĩ mô, toán, triết học, luyện cách viết, thống kê, quan hệ quốc tế.
Harvard có các kỳ thi vào cuối năm. Sinh viên khi đăng ký các lớp học kiểu như trên có thể đến hoặc không đến học, và cuối năm khi có lịch thi thì đến thi, nếu không thi coi như trượt môn đó.
Mỗi giáo sư tự quyết định hình thức thi vấn đáp, thi viết hay trắc nghiệm. Có những môn không phải thi mà chỉ cần viết bài luận. Có những bạn vẫn trượt và thi lại vào kỳ thi năm sau.
Nghiên cứu khoa học diễn ra thường xuyên trong năm. Việc học chỉ là một phần công việc. Ai cũng tham gia các hoạt động ngoại khóa, đi làm thêm tối thiểu 10 tiếng một tuần, làm ở xưởng máy tính, tham gia câu lạc bộ viết báo...tốn rất nhiều thời gian, vì thế, Minh tranh thủ làm nghiên cứu luôn khi tham gia các hoạt động đó.
Trả lời câu hỏi, Minh có dự định về VN làm việc trong tương lai, Minh đáp: qua thời gian thực tập, em thấy người nghiên cứu chưa được đãi ngộ xứng đáng. Bởi vậy, em sẽ về khi thấy VN thực sự coi trọng nghiên cứu khoa học.
Năm 2010, Trịnh Đức Minh nhận được học bổng toàn phần từ 6 trường ĐH Mỹ: Harvard College, Colgate University, University of Chicago, University of Richmond, Connecticut College và Drexel University. Năm lớp 10, Minh học Trường THPT Hà Nội - Amsterdam, sau đó nhận học bổng toàn phần tại Trường St. Joseph's Institution International ở Singapore và tốt nghiệp xuất sắc với số điểm 43/45. Bài luận góp phần đưa Minh bước vào cánh cửa Harvard viết về xe máy và vai trò của nó đối với con người Việt Nam. Ý tưởng của bài luận bắt đầu từ một ngày Minh bị kẹt trong một đám tắc đường vào giờ tan tầm và thấy rằng xe máy đã rất hữu ích trong việc giúp em nhanh chóng thoát ra được khỏi đám tắc đường đó. Theo sự hiểu biết của Minh, có khoảng 10 sinh viên Việt Nam đã và đang học ĐH ở Harvard (không tính sau đại học). Gần đây nhất, "dân Ams" thứ hai sau Tôn Hà Anh là Ngụy Hồng Hạnh Nga được học bổng của Harvard. |
- Hương Giang
Thứ Bảy, 30 tháng 7, 2011
Cảnh Báo"Một hình thức bắt cóc trẻ em ghê ghớm!"
Nhất là những khu vực công viên, đông người mọi người cũng nên cẩn thận trông bé nha. Ở nhà mình bảo cách đây mấy năm ở nhà hàng Thủy Tạ Đầm Sen cũng có trường hợp bắt cóc 1 bé được ba mẹ dắt đi đám cưới, bé cũng được 4-5 tuổi nên ba mẹ cứ thả cho con chạy chơi loanh quanh... đến khi tàn tiệc thì tìm không thấy bé nữa! Bé bị thất lạc cho tới bây giờ vẫn chưa tìm ra luôn :( cho bé hoạt động ngoài trời và giao lưu thoải mái với mọi người là tốt nhg cũng phải dạy cách bé đề phòng với người lạ
Bé nhà mình 2t5 nên cũng lo lắm đây, ổng nhảy cà tưng miết thui
Tuần trước , gia đình bên nhà chồng của cô em đưa các con đi TCV chơi, đang đứng chụp hình thì quay qua quay lại không thấy con đâu (4 t), hóa ra có 1 thằng thanh niên đang dắt đi một đoạn rồi, mẹ nó chạy lại giằng lấy mà sợ quá không dám nói gì thằng kia cả. Đặc biệt là đồng bọn tụi nó rất đông nha, đứng riêng lẻ, ăn mặc đàng hoàng lịch sự .
Sau đó vì quá sợ nên lục tục đi về, không dám chơi thêm, lúc ra gần đến cổng thấy thằng đó đang đứng canh me 1 gia đình khác. Mình hỏi cô ấy sao không báo với Bảo vệ thì cô đó nói sợ tụi nó trả thù, mà cũng đúng, thời buổi giờ chuyện đó chắc cũng dám lắm à. Nhưng nếu không nói thì trước sau gì tụi nó cũng bắt cóc những bé khác, tội lắm.
Mấy mẹ đưa con đi hết sức cảnh giác nha. Mình nghe kể lại mà sợ kinh khủng.
Chuyện đã xảy ra y chang ngay trong xóm mình ở Quận 3, chỉ cách nhà mình chưa đến 100m. Bà nội cỏn trẻ khoảng 50 tuổi chăm bé trai khoảng hơn 2 tuổi để cháu ngay tại bậu cửa để xuống bếp pha sữa, mà nhà nhỏ xíu chứ không phải rộng để nói rằng cách xa cháu. Pha xong sữa quay lên cháu biến mất tiêu, hoảng hồn ra đường nhìn thấy ở phía xa có 1 người đàn bà đang ẳm cháu mình, chạy nhanh lại giật lấy cháu chỉ nói được câu "bà làm gì ẵm cháu tôi đi đâu" rồi quíu luôn. Lúc mẹ mình kể lại mình tưởng chắc là bé trai bụ bẳm, xinh xắn lắm nên mới bị bắt cóc. Khi mình gặp bé thì thấy bé ốm, nhỏ con và không ấn tượng lắm. Có nghĩa là "mẹ mìn" vào xóm đi tìm mồi, thấy ai sơ hở là bắt cóc, không cần đẹp xấu. Các bạn cũng cẩn thận nhé, "mẹ mìn" cũng vào tận ngõ ngách trong xóm chứ không phải ra công viên không đâu.
Cách dạy con của Mẹ Hổ = cmt WTT
Hồi mình còn nhỏ, học luôn đứng đầu lớp rất dễ dàng. Nhưng mình bản tính rất lười biếng. Không bao giờ tập trung vào việc gì, nói chung, không chịu khổ luyện.
Bố mẹ mình để mặc các con tự học, không ép buộc gì hết, không khuyến khích cũng không lơ là. Bởi vì bố mẹ mình chỉ là bố mẹ bình thường, không phải mẹ Hổ.
Giá như mình có mẹ giống mẹ Hổ, mình có thể đã gần thành thiên tài. Không nói ngoa đâu. Bởi thiên tài chỉ là 1% tài năng + 99% khổ luyện mà. Nhưng mình chỉ học đến mức đủ để nhất lớp là chán, là tự thưởng cho mình đi chơi, xem TV, đọc truyện và ngủ.
Mình thấy rất nhiều trẻ em giống mình. Sống dễ dãi, thích hưởng thụ, ham chơi, không thể tập trung ý chí vào việc gì và dễ dàng bằng lòng với thành công nhỏ nhoi. Ngay bây giờ cũng vậy, thay vì lướt oép trẻ thơ thì đi học thêm 1 ngoại ngữ có hơn không? Nhưng mà mình vẫn lười và vẫn lướt web.
Do đó, mình nghĩ rằng không phải mẹ Hổ cố ép các con thành công để làm rạng mặt cha mẹ. Mà là mẹ Hổ dạy các con: sống phải biết khổ luyện, phải đặt mục tiêu ngày càng cao và phải chiến đấu để vượt qua được chính mình, vượt qua tính ỳ của bản thân.
Con của mẹ Hổ chắc chắn sẽ rất vững vàng trong cuộc sống, cho dù cuộc sống có khắc nghiệt đến đâu, vì đã được mẹ rèn cho ý chí và nghị lực. Đâu phải ai cũng có thể ngồi luyện đàn ròng rã mấy tiếng đồng hồ? Các trẻ khác sẽ tìm mọi cách phá bĩnh, sẽ tập cho có, và sẽ không có 1 tí tiến bộ nào (học đối phó).
Mình rất phục mẹ Hổ và sẽ tìm cách dạy con mình theo lối đó. 20 năm đầu đời rất quan trọng để hình thành ý chí và nhân cách.
Chiều con thì dễ, dạy con thành người dũng cảm và có ý chí khổ luyện sắt đá để thành công mới là khó.
Còn chuyện chỉ chúi mũi lo học đàn mà không cho con cái học kỹ năng sống khác, không cho con hòa nhập xã hội, đến nỗi con thành tài năng âm nhạc nhưng trong cưộc sống đời thường thì như bị down, cơm không biết nấu, việc nhà không biết làm, chồng bỏ thì phát điên, đó là sai lầm của ông bố bà mẹ "dạy lệch" đó chứ không phải của mẹ Hổ. Hòa nhập xã hội không có gì là khó. Khổ luyện mới khó. Mình ngưỡng mộ mẹ Hổ lắm.
Mình nghĩ các phụ huynh có con em có tính cách mạnh, thông minh tương đối xuất sắc so với các bạn cùng lứa (ví dụ luôn trong top đầu của lớp-cấp 2 trở lên nhé, không phải cấp 1 - ; việc tiếp thu kiến thức một bộ môn nào đó với các cháu rất đơn giản, nhẹ nhàng, ..v..v..) thì nên tham khảo phương pháp của mẹ Hổ, mình nghĩ là có ích và phù hợp để tạo động lực rèn luyện, phát triển để đã thông minh lại càng thông minh hơn, tránh được việc các cháu chủ quan, tự thỏa mãn đâm ra lười biếng, không có chí tiến thủ . Còn với các cháu chỉ ở mức trung bình khá trở xuống, các cháu có tính cách thụ động, rụt rè, nếu áp dụng cách rèn luyện của mẹ Hổ sẽ phản tác dụng, các cháu sẽ càng rụt rè và thiếu tự tin hơn.
Du học: Từ chuyện cá nhân đến chuyện đất nước
TTCT - Chưa ai tính toán hết những hệ lụy diễn ra cùng làn sóng du học ồ ạt những năm qua, song có thể thấy một nguồn tài chính khổng lồ đã được Nhà nước và xã hội chi trả.
Phía sau những cá nhân thất bại trên con đường du học và một khoảng trống thông tin của Nhà nước về du học sinh liệu có là những vấn đề mới về chất lượng nguồn nhân lực?
Khác với phần lớn các khu vực trên thế giới, tháng 7 ở Úc đang là mùa đông và cũng là kỳ nghỉ dài trong năm của sinh viên nên rất đông sinh viên quốc tế đổ dồn về đây. Trượt tuyết là hoạt động giao lưu thường niên của du học sinh Việt Nam tại Trường đại học công nghệ Swinburne Melbourne, năm nay có 47 bạn đăng ký tham gia - Ảnh: Trọng Chính
Những phí tổn chưa được tính hết
Năm 2000, chỉ có khoảng 10.000 học sinh, sinh viên Việt Nam du học tự túc. Nay con số du học sinh đã vượt trên 100.000 người, trong đó 90% du học tự túc. Những câu chuyện du học thất bại vì muôn ngàn lý do không còn hiếm. Nhưng cũng chưa ai tính toán hết những hệ lụy đã diễn ra cùng quá trình “xuất khẩu” ồ ạt học sinh ra nước ngoài đó.
Lo chảy máu chất xám hay chờ đợi sự trở về cống hiến?
Vấn đề những người lao động giỏi nhất, được đào tạo bài bản nhất và có kỹ năng tốt nhất di cư ra nước ngoài gây thiệt hại cho những nước đang phát triển đã được đặt ra từ lâu. Trong giai đoạn 1990-2000, số người di cư có trình độ đại học trở lên từ các nước đang phát triển sang các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đã tăng gấp đôi, trong số này có rất nhiều người là du học sinh. Tốc độ này tăng nhanh hơn nhiều so với tốc độ tăng người di cư chỉ có trình độ trung học và gây ra mối quan ngại về nạn “chảy máu chất xám” ở các nước nghèo.
Những du học sinh Việt Nam sang nước ngoài học bằng học bổng hoặc tự túc, sau đó lựa chọn ở lại luôn nước sở tại chính là đối tượng của mối lo ngại này. Những người lo lắng chỉ ra bốn tác động xấu của tình trạng du học sinh một đi không trở lại.
Thứ nhất, các du học sinh, những lao động được chờ đợi sẽ có kỹ năng rất tốt trong tương lai, tạo ra ngoại tác tích cực trên thị trường lao động, tức là họ không chỉ làm việc tốt mà còn có thể truyền đạt kinh nghiệm và kỹ năng cho đồng sự. Họ cũng là nguồn lao động rất cần thiết để Việt Nam thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) rất cần thiết cho phát triển. Điều này càng có ý nghĩa nếu Việt Nam muốn thu hút đầu tư vào những ngành công nghệ cao hơn là thâm dụng lao động.
Thứ hai, những du học sinh có thể mang về cùng họ những đòi hỏi cao hơn về chuẩn mực quản lý nhà nước. Thứ ba, giáo dục ở Việt Nam được hỗ trợ lớn của khu vực công (chiếm 8,3% GDP trong năm 2005, cao hơn cả Mỹ chỉ 7,2%), những du học sinh, nhất là những người giỏi nhất, tập trung ở các trường chuyên lớp chọn, hầu hết hưởng lợi từ một nền giáo dục do Chính phủ tài trợ, nhưng sau đó không đóng góp trở lại khi bắt đầu làm việc nếu họ quyết định không về nước (đó là chưa kể những người đi du học tự túc có thể là một nguồn đáng kể trong việc làm tăng thêm thâm hụt cán cân vãng lai).
Cuối cùng, do việc có ít lao động kỹ năng cao, tiền lương trả cho các lao động kỹ năng cao trong nước sẽ cao hơn. Điều này có thể có hại cho tăng trưởng kinh tế của cả quốc gia vì chi phí cao hơn đồng nghĩa với tính cạnh tranh của các doanh nghiệp yếu hơn.
Anna Lee Saxenian, trong nghiên cứu “Từ chảy máu chất xám đến luân chuyển chất xám” năm 2005 chỉ ra rằng tính đến năm 2000, hơn một nửa kỹ sư ở Thung lũng Silicon - khu công nghệ cao số một Hoa Kỳ - sinh ở nước ngoài, trong đó có một phần tư đến từ Ấn Độ hoặc Trung Quốc.
Rất nhiều những người này sau đó trở về nước và lập nên những công ty của mình, làm tư vấn cho các quan chức chính phủ về công nghệ cao hoặc đi dạy ở các trường đại học trong nước. Vì vậy họ có thể góp phần quan trọng tạo nên những “Thung lũng Silicon mới” ở Bangalore (Ấn Độ) hay Thượng Hải (Trung Quốc).
Học sinh, sinh viên tìm thông tin du học tại Ngày hội du học Pháp - Đức - Ảnh: Như Hùng
Du học sinh Việt Nam qua những con số
Trong khi số lượng ngày càng tăng, từ 4.597 người lên 13.112 người sau sáu năm (2005-2010) chỉ tính riêng tại Mỹ, lại không ai nắm được chất lượng du học sinh Việt Nam ra sao bởi chưa có nghiên cứu nào đủ chi tiết.
Hiện hầu hết nghiên cứu về du học sinh ở nước ngoài là do nước sở tại tiến hành. Một nghiên cứu như vậy của Trung tâm Thương mại bang Maine, Hoa Kỳ tháng 9-2010 mang đến nhiều góc nhìn. “Sinh viên Việt Nam tràn ngập nước Mỹ trong niên khóa 2008-2009 - nghiên cứu viết - Tăng tới 46,2% so với niên khóa 2007-2009”.
Mặc dù học sinh Việt Nam chỉ chiếm 1,9% tổng số học sinh quốc tế tại Hoa Kỳ, Việt Nam đã nhanh chóng tiến vào tốp 10 nước có nhiều du học sinh nhất Hoa Kỳ, qua mặt Thái Lan (8.531 du học sinh, đứng thứ 15 năm 2010) hay Indonesia (6.943 học sinh, thứ 18). Tỉ lệ tăng số du học sinh Việt Nam tại Hoa Kỳ luôn ở mức hai con số kể từ niên khóa 1998-1999.
Với hầu hết trường đại học ở Hoa Kỳ, Việt Nam là một thị trường mới nổi rất đáng chú ý. “Những đối thủ cạnh tranh chính trong việc thu hút du học sinh Việt Nam của Hoa Kỳ là Úc, Trung Quốc, Anh và Singapore” - nghiên cứu viết. Tại Úc, con số này là 23.000 sinh viên Việt Nam (năm 2010), chưa kể 10.000 người theo học các chương trình dạy nghề. Úc cũng là nhà cung cấp học bổng lớn nhất cho du học sinh Việt Nam.
Phần lớn du học sinh Việt Nam tại Hoa Kỳ học ở bậc đại học, chiếm khoảng 72,1% tổng số du học sinh, 15,2% là cao học, 9,9% ở các cấp học khác và 2,8% học nghề. Thăm dò của Viện Giáo dục quốc tế Mỹ (IIE) năm 2010 còn chi tiết hơn, cho thấy dự định và mục tiêu của du học sinh Việt Nam tại Hoa Kỳ. Các sinh viên liệt kê Hoa Kỳ là điểm đến số một và coi đó là một nơi học tập ưa thích hơn so với Anh, Singapore, Pháp, Úc và các nước khác.
Có một con số không biết nên vui hay buồn là gần 40% du học sinh Việt Nam tại Hoa Kỳ học các ngành quản trị và kinh doanh, cao nhất trong tất cả các nước. Đây thường là nhóm ngành có tỉ lệ du học sinh theo học cao nhưng với Việt Nam, nó cao một cách bất thường.
Ba nước dẫn đầu về số lượng du học sinh tại Hoa Kỳ có tỉ lệ trên chỉ là 24,3%, 15,3% và 17%, tương ứng với ba nước Trung Quốc, Hàn Quốc và Ấn Độ. Vì thế tỉ lệ du học sinh Việt Nam theo học ngành kỹ thuật chỉ là 10,8% (so với 20,2% của Trung Quốc, gần 40% của Ấn Độ và 12,6% của Hàn Quốc). Tương tự, tỉ lệ du học sinh Việt Nam học những lĩnh vực cần thiết nhất của xã hội hiện giờ như khoa học cơ bản, công nghệ, khoa học xã hội hay nghệ thuật đều ở mức thấp so với các nước.
Tới 45% du học sinh Việt Nam được hỏi trong nghiên cứu của IIE trả lời rằng họ quan tâm tới quản trị kinh doanh, 14% quan tâm tới khoa học xã hội, trong khi số quan tâm đến khoa học ứng dụng không đáng kể. 90% du học sinh Việt Nam tin rằng tiếng Anh là kỹ năng quyết định để có việc làm, trong khi 76% tin rằng mảnh bằng Tây sẽ giúp họ có cơ hội tìm việc làm dễ dàng hơn.
Nghiên cứu cũng hỏi sinh viên về những trở ngại lớn nhất mà họ gặp phải. Không ngạc nhiên khi 84% trả lời tiền bạc là vấn đề khiến họ đau đầu nhất khi du học (đây cũng là trục trặc lớn nhất của các bậc phụ huynh, ở một nước mà thu nhập bình quân đầu người chỉ khoảng 1.000 USD). Sau chuyện tiền nong là thông tin chính xác (46%), xin thị thực du học (36%), rào cản ngôn ngữ (35%), khác biệt văn hóa (33%) và khoảng cách quá xa nhà (25%).
Không chỉ trong quá trình học hành, nhiều vấn đề cũng phát sinh khi họ đi xin việc dù chưa có nghiên cứu chi tiết nào về vấn đề này. Những sinh viên tốt nghiệp mà chúng tôi gặp liệt kê vấn đề bao gồm bằng cấp không tương thích với công việc (dễ hiểu là dù ở Hoa Kỳ hay Việt Nam, thị trường lao động không cần nhiều giám đốc điều hành các doanh nghiệp như vậy), trong khi khó tìm được việc làm như mong muốn ở nước sở tại, việc trở về nước của họ cũng khó khăn do quá trình hòa nhập với một môi trường nhiều khi khác hẳn.
Tốn bao nhiêu để có tấm bằng Tây?
Theo Viện Giáo dục quốc tế Mỹ, trung bình các chi phí du học của một sinh viên như sau:
Khoản mục Chi phí
Học phí đại học tư (loại cao) 25.000 USD/năm (500 triệu đồng)
Học phí đại học tư (loại thấp) 15.000 USD/năm (300 triệu đồng)
Học phí đại học công lập (loại cao) 20.000 USD/năm (400 triệu đồng)
Học phí đại học công lập (loại thấp) 10.000 USD/năm (200 triệu đồng)
Sinh hoạt phí bao gồm tiền thuê nhà, ăn uống, điện thoại, đi lại, sách vở…
Khoảng 1.000 USD/tháng, tương đương 10.000 USD/học kỳ (200 triệu đồng)
Như vậy tính tổng cộng cho bốn năm đại học, một tấm bằng cử nhân Hoa Kỳ sẽ tiêu tốn của một gia đình Việt Nam khoảng 2,4 tỉ đồng, nếu con em họ du học tự túc hoàn toàn.
HẢI MINH
http://tuoitre.vn/Tuoi-tre-cuoi-tuan...-dat-nuoc.html
Tiếp theo
Các bậc cha mẹ Việt Nam sẵn sàng đầu tắt mặt tối cho con du học. Nhưng có một thực tế mà nhiều phụ huynh ít biết: Ở các nước có nền giáo dục tốt, các trường công luôn khó vô vì xét điểm rất gắt gao, nên trường tư mới mọc ra như nấm.
Cấp trung học không thậm xưng bảng hiệu nhưng bậc đại học thì tự xưng “Institute” này, “viện” kia, tuyệt nhiên không gọi mình là “đại học” (university) hay cao đẳng (polytechnics). Nhiều trường còn thuê nhân viên hướng dẫn người Việt, phụ huynh qua hỏi thăm gặp tư vấn người Việt vừa dễ hiểu lại thêm phần tin tưởng. Thực hư các trường ra sao hạ hồi phân giải.
Trước khi cho con đi du học, các bậc cha mẹ cần trả lời được các câu hỏi: Con mình học hành mấy năm qua như thế nào? Có học “hết công suất” không hay chỉ “tài tử”, “tầm tầm”? Con mình có mê học hơn mê game không, có mê học hơn mê chơi không?...
Nếu các câu trả lời đều là “không” thì hãy thận trọng: một chuyến đi học nước ngoài, ngay cả ở nơi có nền giáo dục tốt, không hẳn sẽ giúp thay đổi bản chất một đứa trẻ, nhất là khi trẻ được sống “một mình một cõi”.
THIÊN DI
Nuôi con du học tự túc
Con trai đầu của tôi du học tự túc ở New Zealand bốn năm. Bạn bè, người quen có ý định cho con du học hỏi thăm tôi tốn kém thế nào. Tôi trả lời ngay: “Giống như mình lái chiếc Camry mới toanh sang New Zealand rồi bỏ lại đó!”.
Ngày con tốt nghiệp trung học, biết học lực con cũng chỉ giỏi… vừa vừa, có thi vào các trường đại học danh giá một chút trong nước cũng không chắc đậu, tôi và vợ bàn nhau lo liệu cho cháu du học. Học ở đâu bây giờ là một câu hỏi lớn. Xem tiền học một số trường ở Mỹ mà chóng mặt. Chúng tôi bạc mặt chạy hỏi các trung tâm du học, đơn vị tư vấn du học, hỏi người quen biết, lên mạng…
Giữa lúc ấy, chúng tôi đọc được một quảng cáo chiêu sinh du học ở New Zealand, điều kiện không quá ngặt: chỉ cần học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông loại khá, thêm bằng C tiếng Anh. Con trai chúng tôi đạt được cả hai tiêu chuẩn đó.
Mọi chuyện thật dễ dàng về thủ tục du học, vấn đề còn lại là học phí, chuyện ăn ở của cháu ở nước ngoài. Chúng tôi cân nhắc, bàn bạc rất lâu, cuối cùng gia đình và cháu quyết định chọn ngành hải dương học tại Đại học bách khoa Tauranga vì cháu yêu thích ngành này. Tauranga là một thành phố không quá “phù hoa đô hội” sẽ giúp cháu chuyên tâm học. Và quan trọng nữa là học phí của trường “vừa vặn” khả năng lo liệu của gia đình (ngày ấy học phí mỗi năm học hơn 6.000 USD, chi phí ăn ở khoảng 4.000 USD, rẻ hơn nhiều so với học tại Mỹ).
Những năm đầu tiên, chúng tôi khá vất vả để lo cho con, công việc cơ quan xong tối về nhận thêm việc làm ở nhà. May mắn là cháu học tập tốt, yêu thích ngành học… Nhìn ảnh cháu gửi về mặt mũi hớn hở tươi vui, bao nhiêu nhọc nhằn của chúng tôi tan biến. Năm học thứ ba, cháu cùng vài bạn bè người Việt tìm việc làm thêm ngoài giờ học để đỡ gánh nặng cho bố mẹ. Cháu làm ở một lò bánh mì, đứng bếp chiên đồ ăn, tự lo được tiền tiêu vặt và quan trọng nhất là hiểu được giá trị đồng tiền tự mình làm ra.
Một dịp hè cháu về thăm nhà, nhìn đôi tay của con đầy vết bỏng vì dầu chiên, chúng tôi thật cảm động. Tốn nhiều tiền cho con du học, điều chúng tôi mừng nhất là khi về nước cháu tìm được ngay công việc thích hợp với ngành học. Thật may mắn vì chúng tôi đều chuẩn bị nghỉ hưu!
TRỌNG THANH (Q.Bình Thạnh, TP.HCM)
Tôi buồn vì vẫn có nhiều sự học vô mục đích
Ở tuổi thất thập, thầy NGUYỄN ĐỨC HÒE - hiệu trưởng Trường Nhật ngữ Đông Du - vẫn nói: “Tôi sẽ phải thay đổi tư duy”. Điều ông nói đến là câu chuyện phía sau một cơ đồ không mấy ai làm được: đưa trên 1.000 học sinh đi du học miễn phí.
Ông Nguyễn Đức Hòe - Ảnh: Khổng Loan
* Chúng tôi mới phỏng vấn nhiều học sinh muốn đi du học và nhận được trả lời “đi du học vì thích, vì đại học trong nước quá dở, vì cha mẹ có tiền cho đi”. Thầy nghĩ sao về chuyện này?
- Đó là một tâm thế du học hơi tùy tiện và cũng là mối khủng hoảng tinh thần của tôi những năm qua. Đây là một vấn đề giáo dục lớn của đất nước bây giờ. Tôi làm về du học hơn 40 năm, năm nào tuyển học trò đưa đi đều thấy sự xuống dốc: xuống dốc về trình độ khoa học, kiến thức chung, tinh thần và tư duy cũng xuống. Tôi cứ băn khoăn tìm cách sửa.
Mùa thu năm ngoái, một giáo sư Đại học Kinki vùng Osaka (Nhật Bản) sang VN tìm tôi. Vị giáo sư này được Bộ Giáo dục Nhật Bản ủy thác đi tìm hiểu tình hình sinh viên VN. Ông đã gặp sáu sinh viên và sau khi trò chuyện với họ, ông nói với tôi “như vậy thì không có kết quả”. Trong cuộc phỏng vấn, những em đã tốt nghiệp không trả lời được vì sao chọn ngành học đó.
Hỏi “tốt nghiệp xong em sẽ làm gì?”, câu trả lời chung là “kiếm một công ty trả lương cao”. Vị giáo sư ấy nói: “Tôi thấy sinh viên VN học rất xuất sắc nhưng đều là học hoàn toàn trong sách, lại không định hướng được cuộc đời mình, hiểu rất ít về xã hội, về con người. Những sinh viên ấy hỏi về nước Nhật cũng không rành, hỏi về VN cũng ú ớ. Họ về VN sẽ làm được gì đây?”.
Tôi nghĩ câu hỏi ấy là câu hỏi chung của đất nước ta. Bố mẹ sai lầm không định hướng cho con, Nhà nước không định hướng cho du học sinh, nhiều em đi học chỉ vì mảnh bằng rồi nghĩ mảnh bằng ấy sẽ giúp em cả đời, giống như cách đi thi để làm quan ngày xưa. Cách nghĩ sai lầm ấy làm hỏng các em.
Học là phải gắn liền với tư duy thực tiễn. Nhưng bây giờ bằng cấp và tiền bạc chi phối. Tôi đã nhiều năm đưa học trò đi du học mà không để ý điều này, chỉ thấy em nào học giỏi mà nhà nghèo là giúp các em đi du học. Giờ là lúc thay đổi tư duy, nếu không học trò của tôi “không dùng được” - như ông giáo sư Nhật Bản ấy nói - học xong không dùng được ở ngoài đời, không dùng được ở Nhật Bản, chẳng dùng được ở VN, chỉ cầm được mảnh bằng về, có khi còn huênh hoang khoe khoang.
Đây là vấn đề của VN và tôi cho rằng chính chúng ta phải giải quyết. Mình làm giáo dục, muốn sản phẩm của mình có thể thay đổi được xã hội, hữu ích cho xã hội thì phải thay đổi tư duy ở nhiều khâu. Thay đổi cách dạy, nội dung giáo dục, hướng giáo dục đã đành, quan trọng nhất là thay đổi con người, giúp học trò thay đổi.
* Theo thầy, căn nguyên trực tiếp của những lệch lạc trong chọn lựa đi du học ấy là từ đâu?
- Căn nguyên lớn nhất chính là một lề thói dùng người theo bằng cấp, tức quyền lợi đi theo bằng cấp. Bố mẹ khuyên con học lấy bằng, đương sự cũng nhìn thấy chỉ có một con đường: phải có bằng mới được tuyển dụng, bổ nhiệm. Xã hội giờ cũng trọng người có bằng, ai có chức danh, bằng cấp thì nhiều người nghe, không biết rằng giữa bằng cấp và cái thực biết là hai thứ khác nhau. Tâm lý vọng ngoại còn rất nặng.
Đất nước mình cần rất nhiều kỹ sư, chuyên viên để phát triển đất nước, chúng ta đâu cần nhiều tiến sĩ như vậy. Nhà nước đổ tiền vào đào tạo tiến sĩ, bổ nhiệm chuyên viên cũng vậy, ai có lắm bằng cấp thì dùng. Không thể trách nhân dân được vì họ thấy con đường ấy là duy nhất cho con em họ.
* Theo thầy, VN cần điều chỉnh vấn đề này ra sao?
- Sự hội nhập mang đến một lối làm giáo dục phi tổ quốc của nhiều quốc gia phương Tây, đào tạo những con người quốc tế, không thuộc dân tộc nào cả. Thanh niên tiếp nhận toàn những giới thiệu màu hồng khi du học, về lối sống sung sướng và tự do cá nhân.
Vấn đề của VN là phải làm cho thanh niên thấy được những vấn đề lớn của đất nước này: mối nguy về xâm phạm chủ quyền, nghèo đói, lạc hậu, vay nợ… Không thể chỉ dạy họ niềm tự hào về độc lập, ấm no, thịnh vượng. Phải nói thẳng cho thanh niên rằng “đất nước đang gặp nhiều khó khăn”, cần các em góp sức và thể hiện trách nhiệm.
Một cán bộ Bộ Nội vụ nói với tôi: “Tôi rất ngạc nhiên vì sinh viên của anh đều về, trong khi Nhà nước đưa đi 10 người thì 6-7 người ở lại nước ngoài”. Tôi nói với ông ấy: Hãy vạch cho các em thấy VN cần các em, VN chính là nơi các em thể hiện tốt nhất sở học của mình. Nhà nước phải tự tin nói với các sinh viên VN về điều này.
Tôi nghĩ cần giúp thanh niên định hướng cuộc đời mình: Học cái gì? Đạt được gì? Gánh vác những trách nhiệm gì? Thấy được sự tương quan giữa cá nhân họ với gia đình, với cộng đồng, với xã hội và đất nước của họ, điều chỉnh những kế hoạch đời họ để sống có ý nghĩa, sống có trách nhiệm. Nhà nước phải có một ngọn đuốc thắp lên để thanh niên trông vào đó đi theo.
Tháng 6 vừa rồi, tôi gặp lại ông giáo sư nọ. Ông ấy nói nhiều đại học Nhật Bản đã mở một môn học mới về tư duy. Tư duy lại về mục đích học tập, làm học trò có động lực học, hứng thú khi học tập và làm việc; giúp các em hiểu được học cái đó sẽ dùng nó ở đâu, tùy cơ ứng biến.
Học cao, học kỹ nhưng khi làm việc thì hoàn cảnh nào cũng làm việc được. Nếu tất cả sinh viên du học đều nhận thức sâu sắc được điều đó…, chúng ta tin rằng những lệch lạc hiện thời trong câu chuyện du học sẽ được khắc phục.
CẨM PHAN
Mấy chục năm đưa học sinh đi du học, tất cả học trò tôi đều thành đạt, nhưng là cá nhân các em thành đạt. Các em được đi ra nước ngoài, có bằng cấp, các công ty nước ngoài mời làm việc, kiến thức mở rộng… Người duy nhất thất bại là tôi. Vì mục đích tôi đề ra là đào tạo những con người biết nghĩ đến đất nước, dấn thân vào chỗ khó để thay đổi, sửa chữa, vun đắp.
Cụ Phan xưa đưa được 200 người đi, tôi đưa được hơn 1.000. Nhưng mục đích du học bây giờ lại trở thành cá nhân. Cho nên tôi nghĩ nếu tiếp tục cách làm như vậy thì hoàn toàn vô nghĩa. Tôi phải thay đổi tư duy mới hi vọng đạt được điều mình mong muốn. Nhìn rộng ra, chúng ta phải thay đổi tư duy, đất nước này cần thay đổi tư duy.
Mỗi sự đầu tư cho học tập đều là để khai thác được tinh thần, trí tuệ của người VN, bộ óc của người VN được dùng đúng sẽ giúp chúng ta làm chủ vận mệnh của mình.
Em cũng du học đây ạh. Em đi chẳng vì lý do nào kể trên. Lúc học năm nhất ĐH, em chán ngán những môn học đại cương như kiểu LS Đảng, Kinh tế chính trị, etc, trong số những giảng viên dạy học thì em lại ấn tượng với 1 thầy dạy tin học ứng dụng. Ông thầy của em là tiến sĩ được đào tạo ở nước ngoài, kiến thức phong phú, cách giảng dạy cũng lôi cuốn và hơn cả là tính thực tế trong mỗi bài học. Thế là sau thời gian trao đổi với thầy, em quyết định du học.
Lúc đầu gia đình cũng ngăn cản, ba mẹ chỉ có mình em là con gái, hai bên nội ngoại đều không đồng ý, nhưng tính em cứng đầu nên tự tìm hiểu và làm hồ sơ, sau đó ba mẹ nghĩ lại, thôi thì tương lai của em là do em chọn lựa, nên cũng ủng hộ. Thời gian đầu cũng tưởng bỏ cuộc, cơm không biết nấu, đi chợ không biết mua gì, mọi thứ rối tung hết. Vậy mà cũng đã 5 năm.
Em cũng có ý định học xong MBA thì về lại VN, nhưng thấy tình trạng những người đi trước, em lo không biết có tìm được việc làm đúng chuyên ngành hay không.
Chuyện "chảy máu chất xám" thì ko chỉ VN mà tất cả các nước đều thế. Ngay như những đứa bạn em dân Pháp, Ba Lan, Thái Lan, etc. khi học xong cũng muốn ở lại Mỹ tìm cơ hội hơn là quay về nước.
Nói chung, đi du học thì không chỉ học thêm về kiến thức chuyên môn, với cá nhân em thì cái em học được nhiều nhất ở đất nước này là kỹ năng sống và tác phong làm việc.
Ừm, du học mang lại cho các bạn trẻ nhiều thứ: critical thinking, have sex thoải mái hơn, cởi mở hơn trong các mối quan hệ, chăm chỉ học thì kiến thức cũng có nhiều, sống tự lập hơn. Bạn nào thích chơi bời thì cũng có chỗ chơi bời hết mình hơn, đỡ vướng mắt bố mẹ. Còn chưa biết có mang được gì về cho đất nước không và đất nước có đón nhận mấy cái các bạn mang về đó không. Tóm lại thì mình ủng hộ việc du học, nhưng mà trc khi cho con đi thì các bố mẹ rèn con cho kĩ đã nhé, đừng có nghĩ cho nó đi học thì nó sẽ thay đổi.
Mình không rành ở Mỹ thế nào, còn như ở Nhật này, nếu bạn muốn vào một trường Đại học danh tiếng như Tokyo, Waseda... thì cũng phải luyện thi đấy. Thi cử đầu vào có khi còn "ung thủ" hơn cả thi ở VN.
Hồi ở nhà mình cũng không hiểu sao ở VN giờ mọc ra lắm trường Đại học thế. Sang đây mới thấy ở Nhật số lượng trường Đại học còn nhiều hơn, mà nhiều trường trong số đấy cũng chả ai biết là cái gì.
Thái tử Dubai nam tính và lôi cuốn
Hamdan là con trai thứ hai của ông Mohammed bin Rashid Al Maktoum, Phó tổng thống, Thủ tướng Nhà nước Các Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) và là Thống đốc Tiểu vương quốc Dubai.
Sinh năm 1982, người thừa kế ngai vàng của Dubai được biết đến là một thái tử trẻ trung và thời trang. Làm thơ hay, cưỡi ngựa giỏi cũng là những đặc điểm nổi bật về Hamdan.
Thủa nhỏ, Sheikh Hamdan học tại trường tư thục Rashid ở Dubai, sau đó tới Anh du học. Tại đây, chàng hoàng tử tốt nghiệp Đại học Sandhurst và học tiếp trường Kinh tế London.
Tháng 9/2006, Hamdan được bổ nhiệm làm chủ tịch Hội đồng hành pháp Dubai. Vị thái tử này cũng kiêm nhiệm vị trí người đứng đầu hội các nhà lãnh đạo doanh nhân trẻ, giám đốc hội đồng thể thao Dubai và trung tâm tự kỷ Dubai.
Thái tử cũng kiêm nhiệm vị trí đứng đầu hội các nhà lãnh đạo doanh nhân trẻ, giám đốc hội đồng thể thao Dubai và trung tâm tự kỷ Dubai.
Hamdan từng giành huy chương vàng môn đua ngựa trong Á vận hội.
Sheikh Hamdan có niềm đam mê xe hơi. Bộ sưu tập của Thái tử Dubai có đủ các thương hiệu nổi tiếng như Mercedes Benz, Lamborghini, xe jeep để đi trên sa mạc có Porsches và cả một chiếc Ferrari.
Link : http://www.ngoisao.net/news/thoi-cuo...h-va-loi-cuon/
Ôi hoàng tộc này cả nhà đều đẹp ý ạ, mấy cô công chúa thì mê li
Thêm vài tấm nữa của anh ấy cho các mẹ ngắm nghía này ( nhớ lau bàn phím trước khi các bố phát hiện nhá)
Anh ấy hồi nhỏ đã đáng yêu thế này
2 công chúa Shamma và Shalamh
tặng cả nhà 1 trang ảnh toàn hình của anh chàng này.
http://www.flickr.com/photos/64066863@N00/
Xưa mình có đọc bài viết về gia đình này rồi, hình như là hoàng gia nhiều có nhiều trai xinh gái đẹp nhất thì phải, mấy cô công chúa thì xinh thôi rồi.Nhưng người trung đông đa số là họ có nét đẹp là mắt to, lông mi cong dài, con trai mặt chữ điền, cho nên nhìn hoài cũng thấy bớt xinh
Bổ xung bộ sưu tập xe của Thái tử
Chả biết còn nữa không,thèm quá hà....( thèm mấy xe đó nhoa,chứ Thái tử này ko dám theo hầu,xể mình luôn chứ chả chơi,hic)
Sự hình thành của một siêu cường
Dù có thể tranh đấu gay gắt để lên cầm quyền, các thế hệ lãnh đạo nối tiếp của Hoa Kỳ đều biết gạn lọc và bảo vệ thành quả của chính quyền đi trước chứ không đòi xoá bỏ tất cả để rồi mỗi thế hệ cứ phải đi lại từ đầu mà không còn kiến thức hay kinh nghiệm gì của chính quyền trước đó vì mọi việc đúng sai trước đó đều bị thủ tiêu hoặc xuyên tạc, là chuyện ta thường thấy tại Việt Nam từ thời Tây Sơn đến ngày nay.
So với nhiều - có lẽ với tất cả các - quốc gia khác trên thế giới, Hoa Kỳ có một lãnh thổ lý tưởng để trở thành siêu cường. Xứ này được bảo vệ bởi hai đại dương lớn nhất địa cầu và lại tiếp giáp với hai nước láng giềng rất yếu nên trước tiên không bị bài toán ngoại xâm mà nhiều xứ khác đã gặp trong lịch sử.
Bên trong, xứ này có các con sông lớn, như Mississippi, Missouri, Ohio, Red và Tennessee, lại dễ thông thương với nhau chứ không hoàn toàn biệt lập như Hoàng hà với Dương tử của Tầu hay sông Hồng với Mêkong của Việt Nam. Vùng châu thổ của bốn con sông này có điều kiện địa dư và khí hậu thuận lợi cho canh tác và giao thông, mà tất cả lại nằm trong một khu vực rộng lớn được... mua lại từ Đế quốc Pháp với giá rất bèo! Khu vực gọi là Louisiana Purchase này trải rộng trên 14 tiểu bang, từ biên giới với Canada ở phía Bắc xuống tới Vịnh Mexico ở phía Nam và bao gồm cả hải cảng chiến lược là New Orleans.
Hoa Kỳ có "định mệnh siêu cường" kể từ vụ mua bán đó vào năm 1804, để trăm năm sau sẽ thay thế Đế quốc Anh.
Trên một lãnh thổ phì nhiêu và bát ngát như vậy, lớp di dân sau thời độc lập cứ việc Tây tiến. Họ là thế hệ tiên phong, họ đi trước rồi nhà nước đi sau: họ đẻ ra chính quyền, chứ không chờ "lịch vua ban", hay quy định của nhà nước về cách sinh hoạt trên vùng đất mới.
Trong suốt tiến trình phát triển ấy, ngần ấy thế hệ lãnh đạo đã nối tiếp nhau củng cố và phát triển tiềm năng siêu cường của quốc gia.
Khởi đầu là từ kinh nghiệm của "mẫu quốc" là Đế quốc Anh.
Thời ấy, nước Anh là một hải đảo và có trình độ kỹ thuật cao nhất trong lãnh vực then chốt nhất của các nước là chuyển vận trên hải dương (y như khoa học hàng không và không gian ngày nay). Nhờ vậy, Anh được bảo vệ và bành trướng ra ngoài, ra toàn cầu, trở thành một Đế quốc hải dương, khác với các nước kia là chỉ có thể là một đại cường lục địa - như Đức, Nga hay Trung Quốc.
Từ kinh nghiệm của Anh, bản năng sinh tồn và phát triển của Hoa Kỳ - của nhiều thế hệ lãnh đạo từ thời lập quốc - là phải có lãnh thổ thật sâu để chống lại các đợt tấn công từ ngoài biển Đông vào. Vì vậy, trung tâm sinh lực của quốc gia được chuyển dần vào trong lục địa theo đà Tây tiến. Hạm đội của siêu cường Anh khi đó có muốn giành lại thuộc địa cũ thì cũng không nổi.
Sau khi đã lùi - hay tiến - đủ sâu về hướng Tây, bản năng sinh tồn và phát triển của các thế hệ lãnh đạo Hoa Kỳ là phải có sức phòng vệ trên cả lục địa Bắc Mỹ.
Bản năng ấy mới khiến họ chụp lấy cơ hội mua đất của Pháp như vừa nói ở trên để có một lãnh thổ liền lạc vuông vức. Nhìn lại như vậy thì định mệnh siêu cường của Mỹ có một lần bị đe dọa là trong cuộc chiến với Mexico.
Bước ngoặt đó vào giữa thế kỷ 19, từ 1836 đến 1845, đã quyết định tư thế của nước Mỹ trên cả khu vực Bắc Mỹ.
Sau khi hoàn toàn làm chủ lục địa, Hoa Kỳ tiếp tục... Tây tiến trên Thái bình dương và với việc chiếm được Hawaii, nước Mỹ đã kiểm soát được biển Thái bình từ năm 1898, rồi trở thành đại cường... Á Châu. Tại hướng Đông, trên Đại tây dương, Hoa Kỳ đóng chốt được ngoài biển sau khi chiếm được Puerto Rico - và cả Cuba - từ tay Đế quốc Tây Ban Nha. Thế chiến II còn tạo cơ hội cho Mỹ.. tiếp thu một chuỗi căn cứ hải quân của Đế quốc Anh khi đó đã tàn lụi...
Vì vậy, trong thế kỷ 20, Hoa Kỳ trở thành cường quốc hải dương, có mặt trên cả hai đại dương lớn nhất, và có mặt trên thế mạnh.
Sau Thế chiến II - cách đây có hai thế hệ và 12 đời tổng thống, từ Franklin D. Roosevelt tới George W. Bush - Hoa Kỳ còn tiến xa hơn nữa để kiểm soát các căn cử hải quân ngoài biển và liên kết với một chuỗi các quốc gia bán đảo hay hải đảo: từ Nam Hàn, Đài Loan, Nhật Bản, Phi Luật Tân, Singapore tới Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan tại Á Châu cho đến mẫu quốc và đối thủ ngày xưa là Anh quốc, rồi Na Uy, Đan Mạch tại Âu Châu. Nhờ sức mạnh hải quân và một chiến lược liên hoàn toàn cầu như vậy, Hoa Kỳ trở thành đệ nhất siêu cường hải dương.
Bất cứ một biến cố nào trên thế giới, như thiên tai, động đất, sóng thần hay hải tặc, đều thấy có sự quan sát và can thiệp rất nhanh của Mỹ, nếu chuyện ấy liên hệ đến quyền lợi của quốc gia hay động vào từ tâm của dân Mỹ! Trong lịch sử nhân loại, chưa một đế quốc nào lại có khả năng vươn xa như thể, và đi rất xa dưới con mắt theo dõi của hệ thống kiểm báo trên không gian.
Nếu nhìn lại từ thời độc lập thì ngần ấy thế hệ lãnh đạo có thể tranh cãi lung tung về chiến lược này nọ ở bên trong, chứ về đối ngoại, cả 44 đời tổng thống đều tiếp tục và bành trướng con đường củng cố và phát triển đó: làm chủ lục địa bên trong và triển khai sức mạnh ra ngoài. Eisenhower không khác Truman hay Roosevelt, Kennedy không khác Eisenhower, Nixon không khác Kennedy, và.... Obama không khác Bush!
Mục tiêu muôn thuở của Mỹ không chỉ có tính cách phòng thủ, dù là phòng thủ tích cực trong thế bành trướng. Siêu cường này còn quyết liệt hơn ở một thực tế ít ai nói ra mà dường như lãnh đạo nào cũng thực hiện sau khi nắm quyền. Đó là cố gắng tiết kiệm xương máu, vận dụng xứ khác để làm cho không quốc gia nào có thể kiểm soát được một lãnh thổ quá lớn hầu sau này thách đố vị trí siêu cường của Mỹ!
Nhân lễ độc lập của Mỹ, ta hãy nghiệm lại mà xem...
Trong cả hai cuộc Thế chiến, Hoa Kỳ rất ngần ngại tham chiến tại Âu Châu - và quả nhiên là bị tổn thất nặng trong Thế chiến II - nhưng sau đó đã xé đôi đối thủ là nước Đức. Qua thời Chiến tranh lạnh thì Mỹ be bờ ngăn chặn Liên bang Xô viết trở thành siêu cường độc bá, bằng một chuỗi liên kết với Tây Âu, thậm chí với cả Liên bang Nam Tư ngay trong khối Xô viết.
Tại lục địa Nam Á, Hoa Kỳ cũng hợp tác với Pakistan để khống chế Ấn Độ và ngăn chặn liên minh giữa Ấn với Liên Xô. Khi Liên Xô sa lầy tại A Phú Hãn sau năm 1979, thì Hoa Kỳ của một tổng thống rất lý tưởng là Jimmy Carter lại ma quái yểm trợ các lực lượng Hồi giáo chống Hồng quân Nga. Cũng thế, Hoa Kỳ thời Tổng thống dễ thương là Ronald Reagan lại nhảy vào cuộc chiến tám năm giữa Iran với Iraq và ngầm yểm trợ kẻ thù cũ là Iran để làm suy yếu chế độ Saddam Hussein....
Và ngày nay, trong cuộc chiến chống khủng bố Hồi giáo thì tùy tình hình, nước Mỹ thời Bush 43 đã gõ trên cả hai phím Sunni và Shia, khi xúi bên này khi chặn bên kia.
Nhưng "rút mà không ra" - như người viết đã nhiều lần đề cập tới từ mấy năm trước. Hoa Kỳ sẽ còn khống chế Iraq khá lâu - với binh lính không làm bia đỡ đạn trong thành phố mà trấn giữ các căn cứ ngoài sa mạc. Để canh chừng Iran theo hệ phái Shia và bảo vệ quyền lợi Mỹ trên toàn khu vực Trung Đông.
Cũng thế, khi Liên bang Nga trỗi dậy và đòi lại ảnh hưởng mà Liên Xô đã từng có thì Hoa Kỳ thời Obama sẽ lại tìm ra thế liên kết từ hướng Nam với Turkey lên tới hướng Bắc với Ba Lan và ba nước Cộng hoà Baltic. Nói theo chuyện Chiến quốc bên Tầu thời xưa thì đấy là thế "hợp tung" trên cái trục Nam Bắc để ngăn hặn "cường Tần" đời nay là Liên bang Nga của Putin.
Ngẫm như vậy, người kế nhiệm Obama sẽ có ngày nhìn vào Trung Quốc.... Có khi là ai đó đã nhìn rồi, mà họ nhìn được vì chuyện "ký ức" đã nói ở trên.
Cho dù bất cứ ai lãnh đạo và muốn thi hành chánh sách thiên tả hay hữu khuynh về nội trị, bộ máy an ninh chiến lược của Mỹ vẫn vận hành bình thường, như một chiếc đồng hồ tự động. Và nước Mỹ lại còn có can đảm kỳ lạ là đòi công khai hóa mọi chuyện để người dân, truyền thông, và các học giả có quyền tham khảo và phê phán.
Nhờ sự vận hành thường trực của bộ máy về an ninh - trong các bộ, cơ quan nay trong quân đội - để theo dõi, dự đoán và thiết kế ra mọi loại kịch bản quốc tế, có khi chỉ để trong ổ kéo hay trong một lò trí tuệ, Hoa Kỳ có một kho ký ức rất dày. Mà ký ức đó lại có tính chất tích cực: khả dụng nếu lãnh đạo muốn.
Mọi chính quyền nối tiếp đều có một trách nhiệm thiêng liêng và pháp định, đó là "bàn giao".
Các quốc gia khác, kể cả đại cường Xô viết hay cường quốc mới nổi như Trung Quốc lại không thể có thể thức bàn giao như vậy vì đặc tính độc tài và vì quyền lực quá lớn của mật vụ!
Từ thời độc lập của Hoa Kỳ, tinh thần bàn giao ấy qua 44 đời tổng thống cho phép chuyển giao kinh nghiệm từ thế hệ này qua thế hệ khác để người sau khai triển chiến lược kế tiếp.
Ngoài tinh thần bàn giao trách nhiệm và kiến thức cứ tưởng như rất tầm thường mà vô cùng quan trọng, Hoa Kỳ không có hiện tượng... đốt sách và chôn học trò. Nghĩa là không thủ tiêu kiến thức của người đi trước. Đã vậy, luật lệ Hoa Kỳ còn quy định quyền đòi hỏi giải mật rất nhiều tài liệu hay thông tin của thế hệ đi trước. Mà tổng thống nào thì cũng gom các tài liệu riêng trong thời kỳ lãnh đạo của mình vào một viện bảo tàng hay một thư khố. Ai muốn tham khảo thì có thể tìm đến kho ký ức chung đó.
Nghĩa là quy luật "công khai hóa" mọi chuyện giúp người sau hiểu được vì sao và trong hoàn cảnh nào người đi trước lại sai lầm hoặc đã lấy quyết định như vậy.
Vụ tranh luận về màn "trấn nước tù nhân" là một điển hình nóng bỏng giúp Chính quyền Obama hiểu được bài toán của Chính quyền Bush và dù đồng ý hay không thì cũng biết vì sao ông Bush lại làm như vậy. Không chỉ chính quyền Obama mà người dân Mỹ cũng biết, nên có thể suy xét và phê bình cách hành xử của Bush trước đó, và của Obama sau này.
Không là một ngẫu nhiên nếu Hoa Kỳ trở thành siêu cường toàn cầu, khiến mặt trời không bao giờ lặn trên các chiến hạm của Mỹ. Lý do chính là sự thật không bao giờ tắt trong ký ức chung của các thế hệ lãnh đạo Hoa Kỳ. Họ đáng kính trọng ở tinh thần yêu nước hơn là yêu mình.
Năm 1975, sau khi chiến thắng miền Nam và chấm dứt mấy chục năm tương tàn, nếu lãnh đạo Hà Nội hành xử khác trong hoàn cảnh... chao ôi bi hài, gọi là độc lập, thì tình hình Việt Nam ngày nay đã khác. Sau khi tiếp thu mà chẳng cần bàn giao, nếu Hà Nội chú ý đến ký ức tập thể của miền Nam thì đã gặp gỡ những người có trách nhiệm trong Nam với tinh thần thực sự là dân tộc trên hết. Khi ấy, họ đã học được kinh nghiệm quản trị kinh tế và xã hội, lẫn kinh nghiệm giao tiếp với Hoa Kỳ, hay cả kinh nghiệm đối ngoại - với cả Trung Quốc.
Khi ấy, chưa chắc đã có cuộc chiến Hoa-Việt năm 1979 và chắc chắn là không có sự lụn bại ngày nay trước thế lực Bắc Kinh.
Hà Nội có tập trung những người ở trong phe chiến bại thật. Nhưng để "cải tạo" họ mà thực chất là để tự ca tụng! Lãnh đạo mê muội ấy đầy ải người dân trong Nam rồi tịch thu sách báo, giam cầm trí thức để rơi vào chân không... Họ thủ tiêu ký ức và bần thần - rồi nói phét - trước các vấn đề vượt quá khả năng hiểu biết và ứng xử. Họ gây ra khủng hoảng, đổ thêm xương máu của thanh niên cho chiến tranh và mất mấy thập niên học cách xoay trở với những bài toán mới.
Ngày nay, cách xoay trở mà trên dưới đều thuộc là ăn cắp. Và cách tồn tại mà lãnh đạo đang áp dụng là bán nước.
Đâm ra, Lễ Độc Lập của Mỹ cũng là dịp ta suy nghiệm về thực tế nô lệ của Việt Nam! Buồn nhiều hơn vui...
http://www.dainamax.org/2011/07/su-hinh-thanh-cua-mot-sieu-cuong.html
Tại sao trời không sập?
Wednesday, July 27, 2011
Đầu tháng trước, ông Lý Đạo Quỳ (李稻葵, Li Daokui), cố vấn Ngân hàng trung ương Trung Quốc đã cảnh cáo nếu cuộc thương thuyết ở quốc hội Mỹ bế tắc, nước Mỹ có nguy cơ vỡ nợ, đồng đô la sẽ xuống giá, làm thiệt hại đến nhà nước Trung Quốc, vì họ đang cầm trong tay những giấy nợ của Mỹ trị giá hơn một ngàn tỷ đô la! Ngày hôm qua, bà Christine Lagarde, tân quản trị Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế và cựu bộ trưởng Tài chánh Pháp cũng lên tiếng cảnh cáo rằng nếu chính phủ Mỹ “vỡ nợ” hoặc điểm tín dụng bị hạ xuống thấp thì cả thế giới sẽ bị vạ lây! Cuối tuần qua, cả Tổng thống Barack Obama lẫn Chủ tịch Hạ Viện John Boehner đều nói rằng họ sẽ cố đạt được một thỏa thuận trong chiều Chủ Nhật, trước khi các thị trường chứng khoán Á Châu mở cửa, để tránh cảnh người ta đổ xô đi bán các cổ phiếu vì lo!
Nhưng sau đó hai đảng Cộng Hoà và Dân Chủ vẫn chưa đạt được thỏa hiệp nào hết; mà các thị trường ở Á Châu vẫn mua bán thản nhiên! Trong lúc đó thì tại thị trường chứng khoán New York Chỉ số Dow Jones chỉ xuống chút đỉnh, hôm Thứ Hai mất 50 điểm, Thứ Ba mất 90 điểm. Mức sụt giảm nhỏ như vậy thường xẩy ra như khi mức lời của một vài công ty lớn thấp hơn mong đợi.
Thường khi một công ty hay một chính phủ có nguy cơ vỡ nợ thì những trái phiếu của họ bị sụt giá, vì với mức rủi ro lớn hơn mọi người muốn phải đạt được một mức tiền lãi cao hơn mới bõ công bỏ tiền mua.
Nhưng trong mấy ngày qua các công trái 10 năm của chính phủ Mỹ vẫn vững giá, dân đầu tư chấp nhận chỉ được lãi 3% cũng thỏa mãn rồi! Tức là người ta hoàn toàn tin tưởng rằng cứ cho chính phủ Mỹ vay đi, thế nào cũng được hoàn trả! Các công ty Moody hay S&P dọa sẽ hạ thấp điểm tín dụng của chính phủ Mỹ? Nhưng các công ty thẩm lượng tín dụng chưa bao giờ hạ điểm của một xí nghiệp hay một chính phủ nào khi thị trường vẫn còn tín nhiệm khiến họ có thể đi vay với mức lãi suất chỉ có 3%!
Một con nợ mà chậm trả tiền lãi trong một hai ngày là coi như vỡ nợ rồi (hỏi công ty Vinashin thì biết). Nhớ lại cuối năm 2008, Ngân hàng Lehman Brothers phá sản, chính phủ Georges W. Bush muốn có 700 tỷ mỹ kim để cứu các ngân hàng. Đề nghị này bị quốc hội bác bỏ, thị trường chứng khoán khắp nơi sụt giảm mạnh, thế là cả hai đảng phải chấp thuận ngay món tiền cứu trợ đó. Vậy mà tới hôm nay hai đảng vẫn còn găng nhau, cò kè bàn cãi từng trăm tỷ đô la một, trong khi thị trường chứng khoán coi như chỉ lắc đầu, nhún vai chờ đợi!
Không lẽ hàng triệu nhà đầu tư khắp thế giới lại dửng dưng không lo lắng gì trước viễn cảnh quốc gia giầu mạnh này có nguy cơ vỡ nợ khiến kinh tế cả thế giới bị suy trầm?
Câu trả lời giản dị là: Người ta không tin chuyện đó sẽ xẩy ra! Lo lắng nước Mỹ sắp vỡ nợ cũng không khác gì chuyện “Người nước Kỷ lo trời sập” trong Cổ Học Tinh Hoa. Chắc trời sẽ không sập đâu! Chúng ta sẽ thấy khi nhìn vào các con số.
Hiện nay nhà nước liên bang Mỹ mang nợ hơn 14,000 tỷ đô la. Mỗi tháng Bộ Tài Chánh Mỹ phải trả tiền lãi cho các “chủ nợ” cũ, tức những người đang cầm các trái phiếu của chính phủ, số tiền phải thanh toán trung bình 15 đến 20 tỷ đô la. Trong tháng Tám này sẽ phải trả 29 tỷ, tháng Chín chỉ dưới 10 tỷ thôi. Trong khi đó, nhà nước vẫn thu tiền vào (đừng quên, dân Mỹ vẫn tiếp tục đóng thuế dù trời có sập hay không), trung bình mỗi tháng nhà nước Mỹ thu khoảng 200 tỷ mỹ kim. Do đó, thế nào chính phủ cũng có tiền trả lãi. Còn tiền vốn đáo hạn phải trả thì sao? Bộ Tài Chánh sẽ dùng số tiền thu trong số 200 tỷ trên để hoàn lại chủ nợ cũ. Nhưng ngay sau khi trả nợ rồi thì tổng số nợ xuống dưới mức trần, họ có quyền đi vay đúng số tiền đó để bù vào ngân sách! Mỗi tuần chính phủ Mỹ vẫn cứ trả nợ rồi lại đi vay bao nhiêu lần chưa hề ngưng.
Vấn đề của chính phủ Mỹ không phải là vỡ nợ, mà là sẽ “thiếu tiền tiêu!” Một tổ chức độc lập, Bipartisan Policy Center (BPC) đã tính trong khoảng ngày 2 đến ngày 9 tháng Tám, tổng số công trái (giấy nợ của quốc gia) sẽ lên tới mức 14,300 tỷ, tức là đụng trần. Nếu không được vay thêm nợ, thì chính phủ sẽ phải cắt giảm các món chi tiêu khác. BPC tính trong tháng Tám này, chính phủ Mỹ sẽ thu được 172 tỷ đô la; trong khi theo ngân sách đã được quốc hội chấp thuận từ trước thì sẽ phải chi ra 307 tỷ.
Theo BPC, số tiền 172 tỷ đó dư để trả tiền lãi các món nợ cũ (29 tỷ), tiền Hưu bổng Xã hội (Social Security, hay SS, 49 tỷ), Medicare và Medicaid (50 tỷ), lương binh sĩ (3 tỷ), cựu chiến binh (3 tỷ). Còn lại chưa tới 40 tỷ để chi cho các mục khác.
Bây giờ chính phủ Obama sẽ phải quyết định đặt ưu tiên dùng món tiền 40 tỷ đó như thế nào! Thí dụ, có thể đem chi cho các món trợ cấp thất nghiệp (13 tỷ); trả lại dân số tiền thuế nộp dư (IRS refunds 4 tỷ); trả tiền cho các công ty cung cấp cho bộ quốc phòng (32 tỷ); trợ cấp xã hội trong đó có phiếu thực phẩm Food stamps (9 tỷ); chi cho bộ Giáo Dục (20 tỷ); cùng các cơ quan chính phủ khác. Tổng cộng sẽ thiếu 135 tỷ. Nếu không được vay nợ mới, chính phủ sẽ phải cắt các món chi tiêu khoảng 135 tỷ, tức là cắt 44%. Cắt món nào, cắt của ai? Dưới thời cựu Tổng thống Clinton (Dân Chủ), đã có lúc chính phủ bị thiếu tiền giống như vậy; không phải vì đụng trần nợ mà vì quốc hội (Cộng Hoà) không chịu biểu quyết ngân sách như ông tổng thống muốn. Lúc đó, ông Clinton dọa sẽ không còn tiền trả lương hưu SS khiến quốc hội đã phải biểu quyết một ngân sách riêng cho món này!
Bây giờ cảnh đó có thể tái diễn, nhưng có nhiều cách để bộ tài chánh Mỹ vẫn có thêm tiền tiêu, ngay cả sau khi đụng trần giới hạn công trái.
Trong số hơn 14 ngàn tỷ nợ nần đó thực các chủ nợ là ai? Tới ngày cuối tháng Ba năm 2011, tổng số nợ của chính phủ Mỹ là $14,270.1 tỷ (đô la Mỹ). Trong số đó, công chúng làm chủ $9,656.6 tỷ tiền nợ, Công chúng (public) gồm có các nhà đầu tư trong nước Mỹ và ngoại quốc, các chính phủ và ngân hàng trung ương các nước khác mà Ngân hàng Trung ương Mỹ (Federal Reserve system) làm chủ nhiều nhất, $1,427.4 tỷ. Ngân hàng trung ương Trung Quốc đứng hạng nhì ($1,100 tỷ) rồi đến Nhật Bản ($900 tỷ). Những giấy nợ mà “công chúng” cầm, họ có quyền đem bán trên thị trường (marketable), một thị trường rất năng động vì ai cũng tin rằng cho chính phủ Mỹ vay là an toàn nhất!
Ngoài số nợ với “công chúng” kể trên, các con nợ khác của chính phủ Mỹ là “người nhà,” gồm những cơ quan trong chính phủ có ngân sách riêng của họ. Tiền quý vị đi làm đóng cho những quỹ như Quỹ Hưu bổng Xã hội và Medicare,vân vân, tiền các ngân hàng góp để bảo hiểm các trương mục, các công chức liên bang góp tiền hưu riêng, đều được giữ trong những Quỹ Tín Thác (Trust funds). Các vị quản lý những quỹ này cũng đi mua công trái của chính phủ để sinh lời, tức là các quỹ của nhà nước Mỹ trở thành chủ nợ của nhà nước! Giống như ông nhà nước rút tiền trong cái túi áo cho cái túi quần vay nợ vậy!
Tổng cộng số tiền do các “chủ nợ trong nhà” cho chính phủ vay, vào cuối tháng Ba năm 2011 là $4,613.5 tỷ; trong số đó có khoảng $500 tỷ không được phép đem bán lại trên thị trường (nonmarketable), giống như sổ tiết kiệm vậy! Số chủ nợ trong nhà này rất lớn: Social Security trust funds là chủ nợ của $2,606.6 tỷ; Quỹ Bảo hiểm tai nạn nghề nghiệp (Disability) có $173.1 tỷ; Quỹ Hưu bổng Công chức Liên bang (Federal employees retirement funds) là chủ $782.7 tỷ, Quỹ Y tế Medicare đã cho chính phủ vay $337.3 tỷ; Bảo hiểm các trương mục ngân hàng (Deposit insurance funds) là chủ nợ của $38.3 tỷ, vân vân.
Bây giờ chúng ta có thể thấy chính phủ Mỹ có thể “xoay sở” với các món nợ “trong nhà” để tiếp tục có tiền tiêu mà chưa cần quốc hội cho phép nâng mức trần nợ lên. Khi các Quỹ Tín thác đem tiền của Social Security hoặc Medicare mua những công trái không được phép bán trên thị trường (nonmarketable) thì tổng số nợ tăng lên, tức là tiến gần mức trần hơn. Hành động đó khiến khả năng phát hành công trái bán ra ngoài (marketable) bị giảm. Bây giờ, muốn cho tổng số nợ khỏi đụng mức trần, bộ Tài chánh có thể ngưng không phát hành thêm các công trái “nonmarketable” đó nữa, trong khi những công trái “nonmarketable” nào đáo hạn thì tạm khoan không thanh toán vội. Hậu quả là tổng số nợ tự động giảm xuống, dưới mức trần; nhà nước lại được đi vay thêm!
Họ có quyền làm như vậy hay không? Không có sách nào cấm cả, ít nhất là chưa có! Trong thực tế, quỹ hưu bổng của các công chức liên bang đã được đối xử như vậy một lần rồi! Họ cứ chờ sẽ đến lúc chính phủ có dư tiền, sẽ đem tiền đến trả. Giống như nhà nước rút tiền trong cái túi áo trả vào cái túi quần vậy!
Tóm lại, viễn tượng chính phủ Mỹ vỡ nợ rất khó xẩy ra. Từ năm 1962, Quốc hội Mỹ đã biểu quyết nâng mức trần nợ lên 74 lần, riêng trong 8 năm thời Tổng thống Reagan mức trần đã được tăng lên 17 lần, thời ông Clinton 4 lần, thời ông Bush trẻ 7 lần. Nhưng vấn đề của nước Mỹ không phải là mức trần công trái, mà là ngân sách khiếm hụt!
Vì chính phủ cứ được phép vay nợ đều đều nên cứ việc chi tiêu rộng rãi; ngân sách vì thế ngày càng thâm thủng. Chính phủ Mỹ bây giờ cứ thu được 6 đồng thì chi 10 đồng, tỷ lệ thâm thủng là 40%. Không một quốc gia nào có thể cứ tiếp tục chi nhiều hơn thu, rồi đi vay nợ để bù vào như vậy mãi mãi được! Đây là một vấn đề người Mỹ phải giải quyết, càng sớm càng tốt. Tổng thống Obama vào ngồi ở Toà Bạch Ốc đúng lúc mối lo lắng đó nổ bùng lên (tất nhiên các đối thủ chính trị của ông góp phần chọn thời điểm cho nó nổ). Vì thế, một quyết định giản dị là tăng mức trần nợ biến thành một cuộc tranh luận về ưu tiên trong ngân sách! Việc tăng mức trần nợ không ảnh hưởng gì tới kinh tế quốc gia.
Việc cắt giảm chi tiêu của nhà nước cũng như việc tăng thuế vào lúc kinh tế đang trì trệ sẽ khiến kinh tế khó hồi phục hơn. Nếu hai đảng có đồng ý với nhau trong mấy ngày tới, chắc chắn họ cũng đặt một thời hạn dài, trong 10 năm, để các khoản cắt hay tăng sẽ chỉ được thi hành trong thời hạn 2, 3 năm nữa.
Nếu kinh tế Mỹ hồi phục rồi tăng trưởng mạnh, thì lúc đó số tiền thuế thu được sẽ tự động tăng lên. Như đã xẩy ra thời ông Clinton, ông đã cắt giảm nhiều chương trình xã hội giúp cho ngân sách cân bằng rồi thặng dư, đến thời ông Bush trẻ mới biến thành khiếm hụt. Vụ khủng hoảng tài chánh từ năm 2007 khiến số chi tiêu của chính phủ phải tăng thêm và số thuế thu được giảm xuống! Nhưng ở Mỹ cứ một đảng nào cầm quyền thì đảng đối lập cũng hô hoán về ngân sách khiếm hụt, để bắt nhà nước giảm chi! Vì vậy, chúng ta được chứng kiến cảnh hai đảng tranh cãi và những lời báo động nếu họ còn cãi nhau mãi thì nước Mỹ sẽ “vỡ nợ!”
Tuy nhiên, đến ngày 2 tháng Tám này mà hai đảng vẫn không thỏa hiệp được với nhau về mức trần công trái, thì quý vị cứ an tâm. Nước Mỹ sẽ không vỡ nợ đâu!